Tầng tuệ 2: Phân biệt nhân duyên

Cái này có, nên cái kia có; cái này không, nên cái kia không” nhưng áp dụng vào thực hành ra sao?

Tito: MúcMúc, em lại xách gối sang quán trà này làm gì sớm thế? Vừa hôm trước anh em mình bàn xong tầng tuệ giác thứ nhất, hôm nay em lại muốn xoáy thêm gì à?

MúcMúc: Dạ, anh Tito ơi, em còn bao câu hỏi lấn cấn về tầng tuệ giác thứ 2 trong thiền quán Vipassana của Phật giáo nguyên thuỷ. Anh em mình phân tích tiếp cho sâu nhé. Em nghe nói tầng này liên quan đến “nhân quả” hay “duyên khởi” rất mật thiết, còn gọi là “Paccaya Pariggaha Ñāṇa” – Tuệ phân biệt nhân duyên. Em muốn nghe anh mổ xẻ kỹ mục đích, tác dụng, ngộ nhận, rồi cách thực hành thế nào.

Tito: Hừm, được đấy. Tầng tuệ giác thứ 2 trong hành Vipassana quả thật rất quan trọng. Thôi, ta cứ vào thẳng vấn đề. Anh nhắc lại ngắn gọn: Theo lối diễn tả trong vi diệu pháp, hành giả khi tu tập thiền quán (Vipassana) sẽ kinh qua nhiều giai đoạn tuệ giác, gọi là mười sáu tầng tuệ. Tầng đầu (Tuệ phân biệt Danh-Sắc) – Namarupa Pariccheda Ñāṇa – giúp hành giả thấy rõ: “À, thân tâm này chỉ là danh – sắc, không có ‘cái tôi’ cố định.”

Sau đó, tầng 2 – mà em hỏi – là Tuệ phân biệt nhân duyên (Paccaya Pariggaha Ñāṇa). Ở đây, hành giả bắt đầu thấy mối quan hệ giữa thân và tâm, cũng như mọi hiện tượng khác, đều do nhân duyên mà sinh khởi, không có gì độc lập. Ông Phật từng nhấn mạnh điều này trong rất nhiều bài kinh Nikaya, ví dụ Kinh Ðại Duyên (Trường Bộ Kinh số 15), nói về sự vận hành của duyên khởi: từ vô minh, hành sinh; từ hành, thức sinh… Cho đến toàn chuỗi 12 duyên sinh, xoay vần liên tục.

MúcMúc: Ôi giời, em thích nghe về nhân duyên, vì ngày xưa nghe Phật dạy “Cái này có, nên cái kia có; cái này không, nên cái kia không” nhưng áp dụng vào thực hành ra sao?

Tito: Tầng tuệ này, mục đích là để “chứng nghiệm” chứ không phải chỉ “hiểu” về duyên khởi. Thực ra trong Trung Bộ Kinh số 9 – Kinh Chánh Tri Kiến, ông Phật đã dạy rõ: một người có chánh tri kiến, chính là biết cách “như thật quán” các nhân duyên này. Cụ thể: “Do cái này sanh, cái kia sanh; do cái này diệt, cái kia diệt.” Tầng 2 Vipassana là lúc hành giả quán sát, nhìn rõ ràng tại chỗ: “À, khi tâm khởi tham, thân này liền nóng, liền rung động, tâm này xáo trộn.” Ngược lại, “khi tâm an, thọ xả, thân cũng nhẹ nhàng.” Chính vì thế mới thấy mọi thứ đều có điều kiện, do duyên vận hành.

MúcMúc: Vậy mục đích chính của Tuệ thứ 2 này là gì hả anh?

Tito: Có thể tóm gọn ba điểm:

  1. Thấy rõ mối tương quan: Mình nhìn thân – tâm biến động do nhân duyên, bắt đầu buông bớt ngã chấp.
  2. Chấm dứt ảo tưởng “tôi là chủ”: Vì thấy rõ mọi hoạt động của tấm thân, tâm ý đều do duyên, ví dụ thức ăn, hơi thở, xúc chạm, ý tưởng, v.v…
  3. Định hướng cho giai đoạn quán vô thường – khổ – vô ngã: Tầng thứ 2 làm bệ phóng để đi tới tuệ giác cao hơn.

MúcMúc: Hay nhỉ. Có phải lúc này hành giả bắt đầu phân biệt: Khi “vị ngọt” nơi lưỡi xuất hiện thì nó có nhân duyên là gì. Khi “suy nghĩ tiêu cực” xuất hiện cũng có duyên là gì. Thế rồi mình nhận ra không có cái “tôi” nào thực chất “ra lệnh” cho chúng?

Tito: Chính xác. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh: Lúc thực hành, hành giả đặt trọng tâm ở quán sát trực tiếp: ví dụ khi ngồi, mình thấy rõ cảm giác tê ở chân, liền ý thức “nó đang sinh vì bị ép, do trọng lượng thân, do dòng máu lưu thông…” Thế rồi nếu tâm bực bội với cơn tê, hành giả liền nhìn thêm: “À, tâm bực bội này từ đâu ra, do cái tê hay do sự chấp trước cho rằng ‘đáng ra không được tê, phải êm ái…’?” Dần dần, “tê” là một pháp sinh diệt có điều kiện, chẳng phải “ta,” cơn bực bội cũng thế. Em để ý, trong Kinh Tương Ưng (Samyutta Nikaya) – Tương Ưng Duyên (Trích “Duyên” – Nidāna Saṃyutta), ông Phật mô tả kỹ về việc do duyên xúc mà thọ sinh khởi, do duyên thọ mà ái sinh khởi… Tất cả đều xoay vòng.

MúcMúc: Vậy tác dụng rõ rệt của tầng tuệ này là khiến mình “bừng tỉnh” trước sự vận hành vô thường của tâm – thân. Nhưng có vẻ nghe còn hơi trừu tượng…

Tito: Ta lôi Polyvagal Theory (Lý thuyết Thần Kinh Đa Phế Vị) ra thử so sánh. Lý thuyết ấy nói rằng hệ thần kinh tự chủ (Autonomic Nervous System) có khuynh hướng phản ứng theo kiểu fight-flight-freeze (chiến-hay-chạy-hay-đông-cứng) tùy từng trạng thái an toàn hay đe dọa. Bản ngã mình rất hay đồng nhất những phản ứng này là “tôi sợ, tôi giận, tôi bất lực.” Thực ra, hành vi giận hay sợ chỉ là chuỗi duyên. Từng vùng não, vùng thần kinh phế vị lưng (dorsal vagal), phế vị bụng (ventral vagal), giao cảm, v.v… kích hoạt.

Khi hành giả quán sát với tránh niệm, thấy rõ: “À, do có cái tác nhân này, nhịp tim tăng thế này, cơn rối loạn xuất hiện thế kia.” Đó chính là “quán nhân duyên” theo ngôn ngữ nhà Phật. Mình bớt quy chụp “đây là tôi,” thay vào đó là “à, đây là hiện tượng thân – tâm chuyển động vì nhân duyên.” Bởi vậy, Tầng 2 Vipassana rất sát với Polyvagal: Giúp ta ngộ ra sự thật: Thân – tâm không hề độc lập, nó luôn phản ứng tùy điều kiện.

MúcMúc: Nghe hiện đại ghê. Thế còn ngộ nhận nào hay gặp ở tầng này, anh?

Tito: Nhiều là đằng khác. Đầu tiên, có anh em hành thiền bắt đầu thấy rõ nhân quả, bèn nảy sinh “tưởng mình đã giác ngộ toàn phần” chỉ vì hiểu chút duyên khởi. Thậm chí, họ tuyên bố: “Vũ trụ chỉ là rung động, ta đã nắm hết” – ảo tưởng to đùng! Bởi vì khi mới thấy rõ nhân duyên, chỉ là bước khởi đầu. “Ngộ duyên khởi” phải đi tới chỗ “bứng sạch tham sân si” mới gọi là hoàn thiện chứ.

MúcMúc: Lại có những người giỏi logic, họ nghe rằng “mọi thứ do duyên,” thế là biến thành kiểu duy tâm cực đoan, nghĩ “chỉ có ý niệm,” hoặc ngược lại duy vật cực đoan, “cái gì cũng do vật chất,” rồi cho rằng “mình hiểu nhân duyên”?!

Tito: Chuẩn. Ngộ nhận tiếp là “đổ hết trách nhiệm,” nghĩa là họ hiểu sai: Vì cái gì cũng do duyên, nên “tôi đâu làm được gì, buông xuôi.” Ấy là rơi vào thuyết định mệnh. Ngược lại, ông Phật trong Kinh Tương Ưng Duyên luôn nhấn mạnh: Thấy nhân duyên là để “chuyển hóa,” vì ta biết thay đổi nhân duyên này, bớt vô minh, thêm trí tuệ, khiến “dòng nhân quả” trở nên thiện lợi.

MúcMúc: Vậy, chính Đức Phật gọi là “cái này có nên cái kia có,” chứ chẳng nói “cái này có rồi tôi bó tay.” Mình phải có tinh thần chủ động thay đổi nhân duyên xấu, cải tạo hoàn cảnh, rũ bỏ phiền não chứ.

Tito: Đúng thế. Rồi ngộ nhận nữa là “không màng tình cảm” – có người tu quán nhân duyên, thấy mọi thứ không chắc, bèn rơi vào vô cảm, hờ hững. Họ hiểu sai. Thật ra, hiểu nhân duyên giúp ta thương yêu trọn vẹn mà bớt dính mắc. Thương vẫn thương, nhưng biết tất cả là duyên, thì không còn kiểu “bám riết,” “chiếm hữu,” “đòi hỏi.”

MúcMúc: Nghe có lý. Thế còn phương pháp tập cho tầng tuệ thứ 2 này, anh giải thích cụ thể nhé. Em muốn thực hành.

Tito: Phương pháp thường gọi là “quán nhân quả trong toàn bộ tiến trình thân tâm.” Thường, ta khởi bằng định tâm sơ bộ. Ví dụ, em ngồi thiền, thiết lập chánh niệm trên hơi thở hoặc trên chuyển động bụng, giống kiểu “Anapanasati” hay “quán hơi thở” (xem Kinh Niệm Xứ, Trung Bộ Kinh số 10). Sau đó, khi tâm dần định tĩnh, em để ý bất cứ hiện tượng nào sinh khởi: cảm giác, ý nghĩ, tri giác, v.v… Em truy “Nhân duyên nó đến từ đâu?” – “Khi xoa tay này, cảm giác ấm xuất hiện, do ma sát.” – “Khi ý nghĩ tiêu cực lướt qua, do ký ức hay do cái âm thanh bên ngoài…”

Cứ thế mà truy, nhưng đừng làm bằng lý luận lan man. Là “trực tiếp” trải nghiệm. Rồi em bắt đầu thấy: Mỗi một khoảnh khắc trong tâm-thân có “duyên sinh – duyên diệt.” Quán như thế liên tục, dần dần, em sẽ chín muồi, rung động trước sự thật vô thường sâu hơn. Đấy là mục đích.

MúcMúc: Trong Kinh Chánh Tri Kiến (Trung Bộ #9), ông Phật đã tả: “Bậc Thánh đệ tử tuệ tri thực như thực, tuệ tri xúc như thực, tuệ tri thọ như thực…” – em nhớ rằng, khi ta tuệ tri là ta đang hiểu rõ “duyên này dẫn đến duyên kia” chứ không hời hợt, phải không?

Tito: Đúng. Rồi dần hành giả kinh nghiệm rõ: “Không có tác nhân thường hằng,” “Không có tự tánh bất biến.” Mình hay trích câu: “Cái này sinh, cái kia sinh. Cái này diệt, cái kia diệt” (Trích Trường Bộ Kinh 15, Kinh Ðại Duyên). Trí tuệ về nhân duyên ấy đồng thời mở ra cánh cửa từ bi – vì thấy rõ con người hay vạn vật đều bị duyên chi phối, nên mình không còn khinh ghét, kết tội, hay dính mắc cực đoan.

MúcMúc: Ok. Bây giờ em muốn anh đưa thêm vài ví dụ thực tế trong xã hội hiện nay, để em bám được?

Tito: Ví dụ, một bạn trẻ nghiện điện thoại. Sáng thức dậy, cầm điện thoại, lướt facebook, tiktok… Hành giả quán “Tại sao tôi cứ phải lướt?” – Hoá ra do nội tâm trống rỗng, thiếu dopamine, bèn xem clip giải trí. Lúc xem, do hiếu kỳ, do sợ bỏ lỡ (FOMO) nên cứ xem. Mọi thứ xâu chuỗi. Thế là “nhân duyên” đưa đẩy. Thấy rõ xong, ta không còn đổ thừa “tôi vô phương cứu,” mà hiểu “à, chỉ cần thay đổi thói quen, thay đổi duyên, dần dần cắt cơn nghiện.”

Hoặc một cặp vợ chồng thường cãi nhau. Quán nhân duyên, thấy do kỳ vọng “anh phải thế này,” “cô phải thế kia,” do dính mắc lý tưởng, do xung đột tính cách… Cứ tích tụ, nên mới xảy ra tranh chấp. Thế là thay đổi hành vi, thay đổi góc nhìn, thay đổi ngôn từ – thay đổi duyên cớ, là có thể cứu vãn. Em thấy đấy, hiểu nhân duyên không để ngồi yên, mà để “xoay chuyển.”

MúcMúc: Nghe gần gũi ghê. Anh còn hứa với em “lồng tí quantum physics” cơ mà.

Tito: Ờ, “duyên khởi” nếu em muốn dính đến vật lý lượng tử, có thể ví như “lưỡng tính sóng – hạt.” Hạt vi mô (electron, photon) chẳng độc lập “tồn tại” hay “không tồn tại” tách rời. Chúng xuất hiện trong mối quan hệ với người quan sát, với bối cảnh đo lường. Tức là, “có cái này, mới có hình dạng kia.” Thân tâm mình cũng vậy: Thân (sắc) không tách rời điều kiện ăn uống, hô hấp. Tâm (danh) không tách rời tri giác, ký ức, tương tác. Mỗi khi duyên hội đủ, phóng ra “thân tâm” hình thành thế giới. Đủ duyên tan, nó biến mất. Thế nên, “cái ta” cũng chỉ như hạt ảo – duyên hội tụ thì có, hết duyên thì chẳng còn gì.

MúcMúc: Ôi, ghê thật. Vậy giờ anh cho em tóm tắt: Muốn thực hành tầng 2, em cần:

  1. Nhận diện mọi hiện tượng khởi lên do duyên.
  2. Ghi nhận ngay nơi trải nghiệm, đừng suy diễn dông dài.
  3. Giữ chánh niệm liên tục để thấy chuỗi nhân quả.
  4. Không nhầm lẫn “hiểu lý thuyết” với “chứng ngộ.”

Phải thế không?

Tito: Chuẩn. Thêm nữa, em duy trì đạo đức (giới), giữ tâm vững (định), nhờ đó tuệ quán mới bén. Trong Kinh Tăng Chi Bộ, ông Phật liệt kê: Giới, rồi kế đến Định, kế đến Tuệ. Không có giới, tâm rối bời, quan sát chẳng ra. Mà không định, cũng chẳng quán kỹ được nhân – duyên.

MúcMúc: Vậy, bây giờ nói sâu về “tác dụng.” Em đoán, khi đã hiểu rõ nhân duyên, ta bớt tham, bớt sân. Còn lợi ích gì nữa?

Tito: Tầng này không khiến phiền não biến mất hẳn đâu, nhưng nó:

  • Làm yếu dần ngã chấp: Mình không còn cho rằng “thân tâm này do tôi quyết hết.”
  • Gây hứng thú cho hành giả tiếp tục thực hành: Vì wow, mình thấy rõ “à, mọi cảm giác, mọi ý nghĩ, mọi phản ứng đều có nhân duyên!” Tự nhiên mình muốn đi sâu hơn để thấy vô thường, khổ, vô ngã.
  • Gieo mầm từ bi: Thấy ai nóng giận, thay vì kết tội, ta hiểu họ bị duyên tham sân si chi phối. Tất nhiên vẫn có trách nhiệm cá nhân, nhưng ta sẽ bớt khinh ghét.
  • Gieo mầm trí tuệ: Bởi vì một khi thấy nhân duyên, ta bớt mù quáng. Biết tránh duyên xấu, tạo duyên lành, v.v…

MúcMúc: Tuyệt vời. Anh Tito, cho em xin ít trích đoạn cụ thể từ Nikaya, kèm chương phẩm, để em còn dẫn chứng khi tranh luận với mấy bạn?

Tito: À, dĩ nhiên.

  • Trong Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya) số 15, Kinh Ðại Duyên (Mahā Nidāna Sutta), Chương “Bàn về Duyên khởi,” có câu: “Do thức duyên danh-sắc, do danh-sắc duyên xúc, do xúc duyên thọ…” – nêu rõ chuỗi duyên khởi.
  • Trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikāya) số 9, Kinh Chánh Tri Kiến (Sammādiṭṭhi Sutta), có phẩm nói về “hiểu các duyên,” nêu rõ: “Thế nào là hiểu khổ tập? Chính là nhờ tuệ tri duyên khởi.”
  • Hoặc Tương Ưng Bộ Kinh (Saṃyutta Nikāya), Tương Ưng Duyên (Nidāna-saṃyutta), Chương I, có nhiều bài kinh nhỏ phân tích về từ vô minh duyên hành, từ hành duyên thức.
  • Trong Kinh Ðại Duyên cũng có câu: “Ai thấy duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật.” (Ý tương tự trong Tương Ưng Nidanā).
    Những đoạn này đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quán nhân duyên. Em có thể tra cứu, in ra, đọc kỹ để thấm.

MúcMúc: Nghe đã tai. Giờ em hiểu vì sao cần tuệ giác thứ 2. Nhiều người không biết, cứ tưởng thiền quán Vipassana chỉ là “thở vào, thở ra.” Hóa ra, còn cả tiến trình “rõ nhân duyên” cực kỳ then chốt. Vậy, còn ví dụ XH kiểu xung đột chính trị, hay kinh tế… cũng có thể dùng cái này để nhìn?

Tito: Hoàn toàn được. Xung đột chính trị cũng do nhiều duyên: tham vọng quyền lực, áp lực xã hội, chênh lệch kinh tế, v.v… Nhìn vậy để thấy “mọi thứ xảy ra có lý do,” chứ không phải “ác quỷ đội lốt người.” Từ đó, nếu ta có quyền hành, ta sẽ cố điều chỉnh những duyên cớ bất công. Còn cá nhân ta, thay vì ôm giận, sợ hãi, ta hiểu “à, do cơ chế này, do điều kiện này.” Rồi ta dùng giải pháp phù hợp.

MúcMúc: Hay. Vậy bây giờ, anh phân tích giùm em, khi hành giả tiến sâu vào tầng 2, có dấu hiệu gì cho thấy họ sắp chuyển qua tầng 3 (Tuệ “Sammasana” – quán vô thường, khổ, vô ngã)?

Tito: Dấu hiệu là lúc hành giả bắt đầu chớp nhoáng thấy “Nó sinh kìa – nó diệt kìa – nó vô thường quá.” Tức ban đầu chỉ quán “cái này sinh thì cái kia sinh,” giờ họ nhìn những hiện tượng ấy liền “rung” vì bất ngờ: “Ủa, thoắt cái biến mất, chưa kịp nắm!” Lúc đấy, mầm mống của quán vô thường- khổ- vô ngã đã hé lộ.

Anh nhắc em: giai đoạn 2 cũng còn thô sơ, nên đừng vội cho là đã “đạt kết quả to lớn.” Nhưng nó rất quan trọng, vì giống như “cái nền” để ta tiến sang các tuệ quán sâu hơn, kiểu Sammasana Ñāṇa (tầng 3), Udayabbaya Ñāṇa (tầng 4)…

MúcMúc: Cảm ơn. Em thấy rõ, rung động đầu tiên của “nhìn thẳng vào sự vận hành” là wow. Mà “xem cẩn thận,” anh anh, nhiều người hay dính “khoái lạ” khi lần đầu thấy nhân quả hiển lộ. Gặp xíu khổ thì cũng cho là mình “sắc bén.” Bày cho họ chớ “dính mắc” ở đây thế nào?

Tito: Hãy nhớ, tuệ này về bản chất: “Chỉ ra duyên, buông tự ngã,” chứ không phải tạo thêm “cảm xúc thăng hoa.” Bởi vì khi hưng phấn “Ôi, mình đã hiểu cặn kẽ! Mình sắp thành thánh!”… Sự hưng phấn đó lại là một “duyên” cho bản ngã nảy mầm. Ta cứ tâm niệm “Mình đang thực hành, thấy đến đâu ghi nhận đến đó,” đừng bận “ôi hay quá, lạ quá.” Nếu hưng phấn, thì quán luôn: “À, hưng phấn này do đâu?” – “Do muốn được khen, do si mê?” Rồi mình lại quan sát, buông tiếp.

MúcMúc: Ghê gớm, quay ngược soi liên tục. Bây giờ, anh mà gay gắt nữa, chắc em vã mồ hôi. Anh bảo Tầng 2 gay gắt, ý là gay gắt với bản ngã?

Tito: Đúng. Mình “đập vỡ” mọi hình thức hợp lý hoá “tôi.” Mỗi lần “tôi khổ,” “tôi sướng,” “tôi giỏi,” “tôi dở,” liền quán “cái tôi này do duyên gì? Tính cách, giáo dục, gien di truyền, áp lực xã hội,…?” Sau khi quán, ta thấy “à, chả có gì là trường cửu, nó như cơn sóng. Sóng do gió, do nước, do thời tiết… ” Rồi cười xoà, bớt cực đoan. Hết “gay gắt” rồi, em.

MúcMúc: Hì, kể cả cơn sân hận, ta cũng đập tan ảo giác “tôi sân,” mà thay vào “à, cơn sân này do giọng đối phương, do sự cố, do cơ thể mệt…” Ok, hiểu rồi. Gắt với ảo tưởng. Còn “đời thật” ta sẽ rất từ bi chứ?

Tito: Đúng thế. Mục tiêu rốt ráo của Vipassana, em biết mà, đâu phải tự kỷ hay trơ lì, mà là giải thoát. Từ bi hỷ xả khởi lên rất tự nhiên khi ta biết “vạn pháp vô chủ,” con người trôi lăn do vô minh. Bởi thế, Trung Bộ Kinh số 20 (Kinh Ví Dụ Tấm Vải), có nhắc: Khi tâm được gột sạch nhờ thấy rõ các ô nhiễm, từ bi càng rộng. Thấy nguyên do ô nhiễm, ta còn giận ai?

MúcMúc: Anh Tito, em thắc mắc: Cái danh xưng “tầng tuệ giác thứ 2” có phải văn kinh Nikaya hay từ đâu?

Tito: Ngày xưa, ông Phật không xếp “tầng 1, tầng 2…” chi li như ta bây giờ. Đây là cách hậu thế (các bậc Thầy trong truyền thống thiền quán) đúc kết, sắp xếp thành mười sáu tuệ quán, dạy đệ tử theo lộ trình dễ nắm. Trong Nikaya, ông Phật hay nói tổng quát: “Này các Tỷ-kheo, hãy quan sát ‘Đây là khổ, đây là khổ tập khởi, đây là khổ diệt, đây là con đường diệt khổ’.” Rồi tuỳ duyên, Ngài giảng chi tiết. Tàng kinh văn học phật giáo nguyên thủy (mà ta thường gọi vi diệu pháp) sau này hệ thống hoá, chia làm 16 giai đoạn. Tầng 2 đấy, chứ trong kinh nguyên gốc, ta chỉ thấy dạy quán duyên khởi, quán thức – danh – sắc… Chứ không gọi “tầng tuệ 2” đâu.

MúcMúc: Hiểu rồi. Tóm lại, Tầng 2 – Tuệ phân biệt nhân duyên – anh vẫn khuyên nên cứ bám sát Nikaya, quán theo Satipaṭṭhāna (Niệm Xứ) mà triển khai, chứ đừng ôm đồm học lý thuyết?

Tito: Đúng thế. Em đọc Kinh Ðại Niệm Xứ (Trường Bộ Kinh số 22) hoặc Trung Bộ #10, nắm vững phương pháp quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp. Cứ triển khai “biết” trực tiếp, “biết” nguyên nhân, dần dần tuệ này trồi lên. Phương tiện lắm. Thực hành bền bỉ, “trăm nghe không bằng một thấy.”

MúcMúc: À, cho em hóng, xong tầng 2, hành giả có “thần thông” gì không? Có thấy ánh sáng, rung động gì ghê gớm không?

Tito: (Phì cười) Nhiều người chờ có “khai mở luân xa,” “thấy hào quang vũ trụ.” Nhưng Vipassana không phải show ảo thuật. Ở tầng 2, đôi lúc có bạn có “ánh sáng” nhoáng lên, do định tĩnh + an lạc. Song đó chỉ là “hỷ lạc tạm thời,” đừng bám. Quan trọng là “cái hiểu – cái quán” về duyên khởi có sâu không. Thấy nhân quả trọn vẹn mới quý. Còn thần thông hay huyễn tướng, ngay Kinh Kalama ông Phật đã dạy đừng vội tin.

MúcMúc: Rồi, nếu có người bảo “Tôi nhìn rung động vi tế, thấy ‘hạt’ của tâm,”… Nên tin không?

Tito: Haha, cẩn trọng. Cái “hạt” kia có thể do tưởng tri, cũng có thể do chánh niệm. Anh không phủ nhận “cảm giác rung động” – “ánh chớp” – “nổi da gà” có thể xảy ra. Nhưng cốt lõi là quán xem “nó do duyên gì,” và “ta có đang dính mắc” hay không. Hết. Đừng lạc lối vào ảo tưởng “ta thần bí.” Ông Phật nhấn mạnh: Phép lạ cao nhất là chuyển hoá tham sân si, chứ không phải bay lượn như chim.

MúcMúc: (Phì cười) Vâng, thực tế… Ok, bây giờ em tạm nắm đại ý. Em thích lối áp dụng polyvagal + quantum. Vừa mang tính khoa học, vừa thấy triết lý “ông Phật” sâu thăm thẳm. Giờ, anh Tito, anh chốt hẳn “các lỗi sai cần tránh” ở giai đoạn này?

Tito: Cụ thể có mấy lỗi:

  1. Ngộ nhận “biết nhân duyên” = xong xuôi: Thật ra mới khởi đầu.
  2. Buông lung, đổ thừa “cái gì cũng duyên”: Rồi chẳng chịu điều chỉnh, trở nên phó mặc.
  3. Tưởng đã chứng đắc: Chưa, còn 14 tầng tuệ nữa (nếu đếm theo hệ thống!).
  4. Rớt vào bi quan: Nghĩ “thế giới máy móc, ta vô dụng” – sai! Duyên khởi luôn có chỗ cho tự do chọn tạo thiện duyên.
  5. Tâm phân tích quá mức, quên thực hành: Suốt ngày lý luận “tại duyên này, tại duyên kia,” quên rằng cốt lõi là “trực tiếp quán.”

MúcMúc: Quá rõ. Em sẽ ghi sổ “5 cái bẫy.” Nãy giờ chúng ta tranh luận cũng gắt gao, mà vẫn đầy hứng thú. Thấy rung rung.

Tito: Vì chúng ta đang “đào” tới lõi. Mà này, nhớ “có rung rung” cũng do duyên “em thích,” “anh nói có duyên” (cười).

MúcMúc: Ối, “duyên trùng duyên.” Thế mới lý thú. Nói chung, em rất khoái kiểu đẩy mạnh tranh luận, lôi từ “vi diệu pháp,” “Ông Phật,” “polyvagal,” “lượng tử,” “xã hội hiện đại,”… Tất cả gói chung lại đều chỉ ra: “Tất cả là một mạng lưới duyên sinh,” Tầng 2 này chính là cánh cửa nhìn thấy “mạng lưới” ấy.

Tito: Đấy. Ở chỗ này, ông Phật trong Kinh Ðại Bổn, Trường Bộ #14 cũng nói về quá trình thức tái sinh, do duyên thủ, duyên hữu, duyên sanh… Mạng lưới nhân duyên “đưa” ta đi suốt luân hồi. Ai không thấy, cứ lăn lộn trầm luân. Ai thấy, bắt đầu có lối thoát.

MúcMúc: Vâng, anh. Thế, tóm gọn: Tầng tuệ thứ 2 – Tuệ phân biệt nhân duyên – nêu mục đích để thấu suốt “không có gì tự sinh, không gì tự diệt,” mà do các duyên kết hợp. Tác dụng khiến chúng ta bớt dính mắc, bớt cứng nhắc, nhen nhóm trí tuệ và từ bi. Các ngộ nhận thì nãy anh đã nêu rõ, và phương pháp tập trung quán nhân quả nơi chính thân tâm mình, theo tinh thần Niệm Xứ. Đúng chứ?

Tito: Chuẩn. Đó cũng là “mũi nhọn” của hành thiền Vipassana theo lối Phật giáo nguyên thuỷ. Sau này, nhờ tuệ này, ta dần tiến tới quán sâu hơn về vô thường – khổ – vô ngã.

MúcMúc: Gắt thế mà giờ em thấy vừa sâu vừa thích. Mai mốt khi em ngồi thiền, “dính” khó chịu, em sẽ nhớ: “Này, do thân em chưa quen, do nệm cứng, do bắp chân,” chứ không phải “tôi đau khổ” – hì hì.

Tito: Đúng. Và mỗi khi va chạm xã hội, thay vì “Nó làm tôi khổ,” em nhìn: “Do duyên gì? Mình cũng có tham sân si, người ta cũng có tham sân si, hoàn cảnh xô đẩy…” Từ đó, em sẽ biết cách tháo gỡ nhẹ nhàng. Cứ thế, tuệ quán lan ra cả cuộc sống.

MúcMúc: Ngon. Em tin chắc điều này mở đường cho em sang giai đoạn quán vô thường, khổ, vô ngã. Chứ như bấy lâu, em cứ đọc sách mà không “soi” ngay khi tâm khởi.

Tito: Vậy là đúng đường. Tầng hai này, ta phải rèn “tỉnh” trong từng sát na. Khi phiền não khởi, lập tức quán “do duyên gì?” – Chứ không lẩn tránh hay đè nén. Dùng tuệ tri để “thấy” thay vì tri thức suông. Chỉ đừng quên, cẩn thận ngã chấp tinh vi.

MúcMúc: Ừ, em hoàn toàn ghi nhớ. Cho em hỏi thêm một xíu: Ở phần Kinh Tương Ưng, “Tương Ưng Duyên,” ông Phật đôi khi nhắc một công thức tắt: “Ai thấy duyên khởi, người ấy thấy Pháp. Ai thấy Pháp, người ấy thấy Phật.” Có phải mình mới “nếm” duyên khởi thì tạm gọi “đang thấy Pháp” đó, nhưng chưa toàn diện, phải không?

Tito: Ừ, ý “thấy Pháp” ở đây là bắt đầu “chánh kiến” về sự thật duyên khởi. Chứ “thấy Pháp” mức độ viên mãn là A-la-hán. Dẫu sao, ngay lúc ta thực sự “thấy” (tức “giác ngộ” được phần nào) thì “Pháp” đã lộ. Tầng 2 Vipassana gọi là “chớm thấy Pháp” – hạt giống Bát Chánh Đạo nảy mầm vững hơn. Cứ đi tới chỗ bứng sạch tham sân si, bấy giờ “thấy Pháp” viên mãn.

MúcMúc: Wow… Thú vị thật. Cảm ơn anh Tito. Này, ta tranh luận cũng cả tiếng rồi. Hôm nay, em hạ quyết tâm: Về nhà em sẽ nghiêm túc ngồi yên, ghi nhận hết, không bỏ sót.

Tito: Ừ, nhất là khi mấy cơn giận, cơn tham, cơn lo lắng trồi lên, ráng “bắt tại trận,” quán “cái này sinh do đâu? Này diệt thế nào?” Thế là em đang áp dụng Tầng 2 đấy.

MúcMúc: Chốt hạ. Em khỏi lan man nữa. Cũng thấm loạt “điều cần tránh,” “ngộ nhận” do anh phân tích. Em tự tin hơn nhiều, hy vọng sắp tới “nếm” tí rung động vi diệu.

Tito: Hoan hô. Nhưng anh vẫn “quát” em câu cuối: “Mọi rung động đều do duyên, đừng dính!” (cười to).

MúcMúc: Ái chà, gay gắt thiệt. Thôi, em rõ rồi. Cảm ơn anh nhé. Duyên mà! (cười).

Tito: Ok, ta tạm dừng cuộc tranh luận nơi đây. Cứ thực hành, rảnh thì anh em lại “xoáy” tiếp. Nhớ đọc thêm Trung Bộ Kinh #9, #10, Trường Bộ Kinh #15 nhé.